Nuôi cấy tinh tử giúp điều trị hiếm muộn ở nam giới.
Rất nhiều quý ông đã phải băn khoăn làm thế nào để điều trị vô sinh? Nên chọn phương pháp điều trị nào để đạt hiệu quả cao.
Trong chữa trị vô sinh nam, có hai chuyên khoa cùng "tấn công" vào lĩnh vực này từ hai hướng khác nhau, nhưng chung một mục đích là giúp bệnh nhân hiếm muộn có con. Đó là chuyên khoa hiếm muộn (một chuyên ngành của sản phụ khoa) và chuyên khoa nam khoa (một chuyên ngành của tiết niệu). Vẫn biết "con đường nào cũng tới La Mã", nhưng mỗi chuyên khoa lại có những ưu, nhược điểm riêng.
Thụ tinh trong ống nghiệm
Mũi nhọn của hiếm muộn là phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (viết tắt là IVF – invitro fertilization). Để có thai tự nhiên, tinh trùng phải bơi vòng vòng từ cổ tử cung, qua buồng tử cung, leo lên vòi trứng rồi mới gặp trứng, "chàng" nào yếu sức sẽ dần bị loại khỏi cuộc đua hoặc tới nơi thì "hoa" đã có "chủ" rồi. Thời mà Louise Brown – em bé đầu tiên được sinh ra nhờ thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) năm 1978 - bác sĩ chỉ trộn tinh trùng và trứng trong ống nghiệm (gọi là đĩa cấy thì đúng hơn), tinh trùng không cần nhọc công như trong quá trình thụ thai tự nhiên nữa, nó được đặt nằm kế bên trứng, chỉ cần chui vào trong trứng là xong. Năm 1992, một kỹ thuật mới ra đời, gọi là ICSI – intracytoplasmic sperm injection. Với phương pháp này, bác sĩ sẽ dùng một cây kim cực nhỏ, soi dưới kính hiển vi có độ phóng đại 300-400 lần, "túm" một "anh chàng" tinh trùng sống, chọc thủng màng trứng rồi tiêm trực tiếp "anh chàng" vào trong lòng trứng, bắt trứng thụ tinh. Với phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm này, chỉ cần "chàng" tinh trùng còn sống là thực hiện được rồi và nếu may mắn thì "chàng" và "nàng" có thể phát triển thành thai. Với phương pháp này có những tinh trùng tiềm ẩn một số bệnh di truyền mà bình thường thì nó không có khả năng thụ tinh trứng, nhưng với kỹ thuật ICSI thì nó vẫn có thể "hoàn thành" nhiệm vụ của mình, tất nhiên là hoàn thành trên tinh thần "không tự nguyện" và cho ra đời những em bé không như mong muốn.
Thụ tinh trong ống nghiệm có những nguy cơ như hội chứng quá kích buồng trứng, các biến chứng do chọc hút lấy trứng (xuất huyết nặng) và hậu quả của việc đa thai. Đa thai đi kèm với việc tăng tỉ lệ trẻ mắc bệnh và chết non, liên quan tới chuyện sinh non. Không chỉ các trường hợp đa thai mà ngay cả chỉ sinh 1 trẻ thì thụ tinh trong ống nghiệm cũng liên quan tới việc tăng cao các biến chứng cho mẹ và cho em bé.
Hội Y học sinh sản Hoa Kỳ cũng cho biết, khi trích tinh trùng mào tinh để thụ tinh trong ống nghiệm, nếu chọc kim vào mào tinh thì nó có thể làm tắc vĩnh viễn mào tinh và làm cho chuyện nối ống dẫn tinh với mào tinh trở nên xa vời. Đây là trường hợp chọc mào tinh lấy tinh trùng để điều trị, chứ chọc mào tinh để chẩn đoán thì Hội Y học sinh sản Hoa kỳ không hề khuyến khích.
Cũng theo báo cáo của Hội Y học sinh sản Hoa Kỳ: Tỉ lệ thụ thai nhờ ICSI là 30-40% và tỉ lệ thực sự sinh ra em bé chỉ còn 25-30% (5-10% còn lại là thai bị sảy). Điều quan trọng của điều trị vô sinh không phải là tỉ lệ thụ thai là bao nhiêu phần trăm, mà chính là tỉ lệ trẻ được sinh ra là bao nhiêu. Tuy nhiên, khi nói về tỉ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm, các báo cáo ở Việt Nam chỉ nói tới tỉ lệ thụ thai, còn tỉ lệ trẻ thực sự được sinh ra thường không được nhắc tới. Tôi thử tìm con số này qua một số báo cáo ở các hội nghị hiếm muộn trong nước nhưng không tìm thấy. Còn theo Hội Y học sinh sản của Hoa Kỳ thì con số sinh ra em bé chỉ có 25-30% thôi.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét